Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

9 lý do khiến Lãnh Đạo Bắc Kinh phải ra tay sớm


Lê Xuân Khoa
19-06-2014
Ngay sau khi Trung Quốc gây ra sự cố giàn khoan Hải Dương Thạch Du (HD-981) tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam, giới phân tích chính trị quốc tế đã cho thấy đây không nhất thiết là một hành động chiếm đoạt về kinh tế mà chủ yếu là một nước cờ chính trị của Bắc Kinh nhằm tạo tiền lệ cho những bước lấn chiếm khác trong kế hoạch kiểm soát toàn thể Biển Đông Nam Á. Đây vừa là một bước thăm dò vừa là một ngón đòn phủ đầu trước khi Hoa Kỳ có thể thật sự xoay trục sang Châu Á và tái khẳng định vai trò cường quốc Thái Bình Dương. Bước chiến thuật này đã đem lại cho Trung Quốc một thắng lợi ban đầu nhưng qua những phản ứng của Việt Nam và những nước liên quan thì hành động này là một tính toán khá mạo hiểm trong chiến lược “Giấc mơ Trung Quốc ”, một mục tiêu quốc gia được Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức tuyên bố trước Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc ngày 17.3. 2013 và định nghiã là “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.” Mạo hiểm hay không, lãnh đạo mới của Trung Quốc cũng quyết tâm hành động vì cho rằng thời cơ đã đến.
Đã có nhiều tác giả Việt Nam và ngoại quốc viết về những mục tiêu trước mắt và lâu dài của Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981, phản bác những luận điệu của lãnh đạo Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên 80 % Biển Đông Nam Á theo bản đồ đường chín đoạn do họ tự vẽ ra, bất chấp luật lệ quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Vì vậy, bài này sẽ không tham gia vào những đóng góp quan trọng của các học giả về cơ sở lịch sử và pháp lý của Việt Nam mà chỉ chú trọng vào một số biện pháp cụ thể cần làm ngay để triệt tiêu mưu đồ của Trung Quốc đang từng bước thực hiện mục tiêu sử dụng Việt Nam làm bàn đạp tiến xuống các quốc gia khác trong khu vực.
Tên khổng lồ tỉnh giấc
Lịch sử chính trị thường nhắc đến câu chuyện Hoàng đế Napoléon Bonaparte sau khi đọc bản dịch cuốn Tôn Tử Binh pháp do một linh mục Pháp sống ở bên Tàu đời nhà Thanh thực hiện, đã phát biểu một nhận xét thú vị: “Hãy để cho tên khổng lồ này ngủ yên, vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Thật ra thì từ thời xa xưa cho đến hết thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc chỉ tự rung chuyển mình bằng những cuộc nội chiến (như thời Đông Chu liệt quốc) hay bị rung chuyển khi ngoại nhân (như Mông Cổ hay Mãn Thanh) chiếm đóng và cai trị, bị tám nước Tây phương (Bát quốc liên quân) trừng phạt đầu thế kỷ 20 và gần đây nhất là bị quân đội Nhật hoàng xâm lăng và hành hạ trong thời Đệ nhị Thế chiến. Công bằng mà nói thì Trung Quốc cũng có làm rung chuyển một số quốc gia láng giềng nhỏ bé như Cao Ly (Triều Tiên) và Việt Nam qua những cuộc chiến tranh xâm lược nhưng rốt cuộc đều bị đánh bại và phải chạy về nước. (Đáng chú ý là vị anh hùng Cao Ly đại thắng quân Nguyên lại là một “thuyền nhân” người Việt: Lý Long Tường, thái tử nhà Lý, chạy sang Cao Ly tị nạn sau khi Trần Thủ Độ diệt nhà Lý để xây dựng nhà Trần. Lý Long Tường đánh thắng quân Nguyên hai lần, được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Tướng quân.)
Chỉ đến khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền năm 1978 Trung Quốc mới thực sự bắt đầu một thời kỳ cải cách và phát triển theo hướng ”chủ nghiã xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Đặng thi hành chủ nghĩa thực dụng về kinh tế, mở cửa làm ăn với các nước Tây phương với câu nói nổi tiếng: “Mèo đen hay mèo trắng không thành vấn đề miễn là nó bắt được chuột.” Nhưng quan trọng nhất trong mưu lược đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là âm thầm xây dựng một nước Trung Hoa hùng mạnh bằng chính sách “thao quang dưỡng hối” (giấu cái sáng, nuôi cái tối) tức là giấu diếm nội lực, giả vờ yếu kém để chờ ngày vùng dậy làm bá chủ thiên hạ.
Chính sách ẩn mình chờ thời của Đặng Tiểu Bình nay đã đến hồi kết thúc. Chỉ trong ba thập kỷ, Trung Quốc từ một nước nghèo đói đã vươn lên thành một siêu cường kinh tế, vượt Nhật Bản để chiếm địa vị thứ nhì sau nước Mỹ, và cũng đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ với số tiền cho mượn trên 1300 tỉ đô-la. Thời Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư, Trung Quốc đã giàu nhất thế giới vì nhờ lao động rẻ nên đã trở thành công xưởng của tư bản quốc tế sản xuất hầu hết hàng tiêu thụ khắp các nước. Không giấu được sức mạnh tiền bạc nhưng Hồ Cẩm Đào vẫn tiếp tục lừa thế giới với khẩu hiệu khiêm tốn là “trỗi dậy hoà bình”. Từ 2012, khi Tập Cận Bình kế vị Hồ Cẩm Đào thì “Trỗi dậy hoà bình” được đổi thành “Giấc mơ Trung Quốc”, thể hiện rõ hơn chủ nghĩa dân tộc của một lãnh đạo nhiều quyền lực nhất, cùng một lúc nắm ba chức vụ Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Lời tiên đoán của Napoleon nay được nghiệm đúng: tên “khổng lồ” đã tỉnh giấc và sẽ thật sự làm rung chuyển thế giới. Nhưng rung chuyển đến mức nào và sẽ bị rung chuyển ngược ra sao lại là chuyện khác.
Đặc điểm chung của các lãnh đạo cộng sản độc tài là “nói một đàng làm một nẻo” và kiên quyết phủ nhận những sự thật hiển nhiên. Tập Cận Bình còn hơn cả những người tiền nhiệm ở chỗ không giấu diếm thái độ tự tôn và ngang ngược về mặt đối ngoại dù vẫn luôn luôn dối trá. Đối với Tập, thế kỷ 21 phải là thế kỷ của Trung Quốc vĩ đại, và thời điểm 2014 rất thuận lợi để cho Tập khẳng định quyết tâm thực hiện “Giấc mơ Trung Quốc” khởi sự từ Việt Nam, đối tượng quan trọng nhất nhưng lại dễ dàng nhất. Tập Cận Bình không thể bỏ lỡ cơ hội này dù mới đây Tập đã trơ tráo quả quyết rằng “Trung quốc không có cái gien xâm lược.”
Tại sao Việt Nam?
Một người Việt Nam bình thường nào (và tất cả những học sinh miền Nam trước 1975) cũng biết rõ là từ các triều đại phong kiến hơn hai nghìn năm trước đến thời đại cộng sản ngày nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn tìm cách xâm chiếm đất nước và đồng hoá dân tộc Việt. Tất cả những quan hệ hoà bình, hữu nghị giữa hai nước đều chỉ là giả tạm và có lợi hơn cho Trung Quốc, tất cả mọi sự viện trợ to lớn của cộng sản Tàu cho cộng sản Việt trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà đều là những điều kiện thuận lợi cho việc đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Trung Quốc sau chiến tranh. Ngoài ra, vì Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất, cộng sản Tàu còn có lợi ích đặc biệt là “đánh Mỹ cho đến người Việt cuối cùng”.
Trở lại với câu hỏi “Tại sao cộng sản Trung Quốc (CSTQ) lại chọn cộng sản Việt Nam (CSVN) là nạn nhân đầu tiên trong mưu toan làm chủ Biển Đông Nam Á, kiểm soát các nước ASEAN và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương?”, tôi thấy có chín lý do dưới góc nhìn của Bắc Kinh:
1. Việt Nam có vị trí chiến lược then chốt, gần nhất và thuận tiện nhất để Trung Quốc có thể sử dụng vào mục tiêu khẳng định quyền làm chủ Biển Đông Nam Á, khai thác tài nguyên biển và kiểm soát toàn thể các nước trong khu vực.
2. Từ sau bản mật ước Thành Đô năm 1990, Việt Nam đã gần như lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị. Việt Nam lại đang bị suy thoái về kinh tế và không có một đồng minh nào về chính trị và quân sự.
3. Cộng sản Việt Nam không thể rời bỏ chỗ dựa an toàn là Trung Quốc vì cần phải duy trì sự tồn tại của Đảng và chế độ với những đặc quyền đặc lợi quá lớn đã nắm giữ từ lâu trong khi phạm những tội ác quá nặng đối với nhân dân và đất nước.
4. Việt Nam khó khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa vì mắc kẹt với bức công hàm của TT Phạm Văn Đồng gửi TT Chu Ân Lai ngày 14/09/1958. Trên 50 năm qua, nhà nước Việt Nam né tránh vấn đề này nên có rất ít công trình nghiên cứu về pháp lý và lịch sử làm cơ sở tranh cãi so với số lượng nhiều gấp hàng chục lần của Trung Quốc.
5. Các nước ASEAN không đoàn kết và mỗi nước đều có nhiều lợi ích kinh tế riêng qua những quan hệ hợp tác song phương với Trung Quốc.
6. Hoa Kỳ đang phải đối phó với nhiều khó khăn ở trong nước và nhiều nơi trên thế giới nên chưa thể thật sự xoay trục sang Châu Á như mong muốn. Trung Quốc cần nắm lấy cơ hội trước khi Hoa Kỳ có thể cùng với Nhật xây dựng liên minh chiến lược với ASEAN.
7. Trung Quốc cũng có nhiều khó khăn nội bộ nhưng qua hành động thị oai với Việt Nam và xác định quyền khai thác tài nguyên trên biển Đông Nam Á, lãnh đạo Bắc Kinh có thể khích động chủ nghĩa dân tộc và gỉảm bớt sự bất mãn và chống đối của nhân dân.
8. Hoa Kỳ và Nhật Bản đang có những nỗ lực lôi cuốn Việt Nam ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc giữa lúc tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ của nhân dân Việt Nam đang lên cao, khuyến khích khuynh hướng thoát Trung trong các đảng viên CSVN và hậu thuẫn mạnh mẽ cho khuynh hướng cải cách trong nội bộ lãnh đạo.
9. Nguy hiểm nhất là triển vọng thắng thế của khối yêu nước và cải cách chính trị ở Việt Nam, trong và ngoài Đảng. Nếu Việt Nam thoát Trung và trở thành một nước dân chủ, chế độ độc tài cộng sản ở Trung Quốc sẽ lung lay và chắc chắn phải sụp đổ trong một tương lai không xa.
Chín lý do trên đây khiến lãnh đạo Bắc Kinh phải ra tay sớm, bất chấp luật lệ quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển, và bộ Quy tắc về Ứng xử giữa các bên ở Biển Đông Nam Á (gọi tắt là COC) mà Trung Quốc đã hứa sẽ ký kết với các nước ASEAN tiếp theo bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) đã được các bên ký từ năm 2002.
Riêng đối với Việt Nam, Trung Quốc đã thẳng tay xé bỏ hai bản thoả thuận do lãnh đạo hai bên ký kết năm 2011 và 2013, cam kết giải quyết hoà bình các vấn đề khó khăn giữa hai nước. Tệ hơn nữa, Bắc Kinh đã ba lần bác bỏ lời yêu cầu khẩn cấp của Hà Nội về một cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh để giải quyết hoà bình vụ giàn khoan HD-981. Châm ngôn “16 chữ” và “4 tốt” thể hiện tình đồng chí bền chặt giữa hai đảng anh em được ca tụng hơn 20 năm bỗng nhiên bị quăng vào thùng rác. Hành động trở mặt tàn nhẫn và bất ngờ của Trung Quốc đối với Việt Nam chỉ có thể giải thích được bằng nguy cơ được nêu lên ở hai điểm số 8 và 9 trên đây.
Phản ứng phức tạp của Việt Nam
Nếu lãnh đạo Việt Nam đã phải bàng hoàng vì sự trở mặt trắng trợn của Bắc Kinh thì lãnh đạo Trung Quốc cũng bị bất ngờ trước khí thế yêu nước bùng dậy mãnh liệt từ phiá nhân dân Việt Nam, một dân tộc tưởng như đã bị chế độ cộng sản thuần hoá thành những con người khiếp nhược chỉ biết tuân lệnh vì đã được dạy dỗ rằng “chuyện gì cũng đã có Đảng và Nhà nước lo.”
Thật đáng tiếc là thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc cậy mình quá giàu và quá mạnh nên không chịu tìm hiểu lịch sử và văn hoá Việt Nam để biết rằng truyền thống chống Trung Quốc xâm lược vốn nằm sẵn trong từng mạch máu, từng thớ thịt của dòng giống Việt từ ngày lập quốc. Bởi vậy, ngay trong hàng ngũ đảng viên CSVN, trừ một số đã nhiễm độc nặng vì địa vị và quyền lợi, những đảng viên yêu nước vẫn kiên quyết đấu tranh cho độc lập và chủ quyển của quê cha đất tổ. Họ cũng sáng suốt nhận ra những sai lầm tai hại của chủ nghĩa cộng sản nên đã dấn thân vào tiến trình chuyển hoá chế độ từ độc tài độc đảng sang dân chủ đa nguyên đa đảng. Nhưng dưới sự cai trị khắc nghiệt của chế độ toàn trị, trí thức và nhân dân không thể bày tỏ lòng yêu nước hay thái độ bất mãn đối với những hành động sai trái của chính quyền. Mọi hoạt động phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền hay đối xử tàn nhẫn với ngư dân Việt Nam đều bị nhà nước ngăn cấm và những người dám lên tiếng đều bị trù dập, bắt giữ và kết án nặng nề.
Nhưng sự chiụ đựng nào cũng có giới hạn và nhà cầm quyền cũng không thể che giấu mãi tội ác của Trung Quốc và thái độ hèn kém của mình. Rốt cuộc ngày phải đến đã đến. Ngày 1 tháng 5, 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan khổng lồ HD-981 cùng hơn 80 tàu vũ trang và máy bay hộ tống vào khu vực Hoàng Sa, hạ đặt giàn khoan này ngay trên Thềm lục địa và trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Các tàu hộ tống giàn khoan đã tấn công các tàu công vụ và dân sự của Việt Nam gây hư hại nhiều tàu và một số người bị thương vong.
Hành động phi pháp và thái độ hống hách của cường quyền Bắc Kinh không chỉ làm bùng dậy lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà còn làm cho đám lãnh đạo thân Bắc Kinh phải lo sợ và đành lòng để cho nhân dân biểu tình chống Trung Quốc. Mặc dù cuộc biểu tình đầu tiên được phép ngày 11.5 đã diễn ra tốt đẹp vì nhân dân chỉ biểu dương lòng yêu nước chống quân xâm lược chứ không chống chính quyền, phe thân Trung Quốc đã tìm cách ngăn chặn cuộc biểu tình trong tuần kế tiếp mà họ biết chắc là số người xuống đường tham gia sẽ tăng lên gấp bội. Nhiều nguồn tin cho hay họ đã mướn côn đồ sách động công nhân biểu tình bạo động ở một số cơ xưởng do người ngoại quốc đầu tư, gây thiệt hại vật chất và thương tích cho một số người bị coi là dân Trung Quốc. Mượn cớ có bạo động, chính quyền đã có lý do chính đáng để ra lệnh cấm biểu tình dù ban tổ chức đã thông báo chủ trương bất bạo động. Điều này cho thấy nội bộ lãnh đạo Việt Nam vẫn còn chia rẽ nhưng phe cấp tiến đã bắt đầutạo được hậu thuẫn của nhân dân yêu nước và khao khát dân 
 chủ..
                                Trich trong bài :      Việt Nam cơ hội cuối cùng.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét