Thứ Tư, 21 tháng 10, 2015

Bao giờ bằng được Căm PuChia



Huy Đức

21-10-2015

Không biết có phải vì các “thái tử đảng” xuất hiện ồ ạt ở Việt Nam mà Phnom Pênh cũng đang có tin đồn, Hun Sen sắp đưa con trai mình lên thay thế. Hôm 19-10-2015, Hun Sen đã phải trấn an: “Campuchia (CPC) là một thể chế dân chủ. Thậm chí, Vua cũng được chọn bởi Hội đồng tôn vương. Ở CPC muốn trở thành lãnh đạo phải thông qua bầu cử “.

Hun Sen hiện đang có hai người con theo chân bố: Hun Manet sinh 1977 và Hun Many sinh 1982. Hun Manet tốt nghiệp West Point năm 1999, sau đó lấy bằng tiến sỹ tại đại học Bristol (Anh), hiện đang là Phó tư lệnh Lục quân CPC. Hun Many – từng du học ở Mỹ, Pháp, Úc – là thủ lĩnh thanh niên CPP, đắc cử nghị sỹ trong cuộc bầu cử tháng 7-2013.

Hun Manet là người CPC đầu tiên học ở Học viện quân sự West Point và là một trong bảy học viên nước ngoài tốt nghiệp cùng khóa. Tất nhiên, yếu tố “con trai Hun Sen” đóng một vai trò quan trọng để Hun Manet trở thành tướng ba sao (2013) [Quân đội CPC đang có 5400 tướng + khoảng hơn 500 tướng công an]. Nhưng, để trở thành Phó tư lệnh Lục quân, Hun Manet cũng đã phải trải qua từng nấc thang: Phó tư lệnh cảnh vệ; Tư lệnh lực lượng chống khủng bố… Và, phải lập công.

Trong cuộc đụng độ với quân đội Thái Lan trên biên giới, nổ ra từ năm 2008 đến 2011, Hun Manet đã được tăng cường vào thời điểm khó khăn nhất và trở thành một trong những chỉ huy xuất sắc; rồi trở thành một trong những người thương thảo chính với Thái Lan về vấn đề biên giới; là thành viên quan trọng đại diện cho Campuchia tại tòa án quốc tế La Haye với phán quyết cuối cùng về ngôi đền Preah Vihear nghiêng về phía Campuchia.

Ngày 16-10-2015, trả lời phỏng vấn đài truyền hình ABC của Australia về việc liệu ông có thể trở thành Thủ tướng CPC trong tương lai, Hun Manet nói: “CPC là một thể chế dân chủ đa đảng. Hiến pháp quy định cứ 5 năm chúng tôi phải tiến hành bầu cử. Vì thế sự lựa chọn ai và khi nào trở thành lãnh đạo tùy thuộc vào nhân dân CPC”.

Cũng hôm 19-10-2015, Son Chhay – một nghị sỹ đối lập, CNRP – đã phải thừa nhận: “Hun Manet có khả năng và tất cả kỹ năng để cải thiện hình ảnh quân đội. Khi CNRP lên nắm quyền, tướng Hun Manet có thể vẫn là một tư lệnh tốt của lực lượng vụ trang Hoàng gia”. Thế nhưng, người em của Manet, Hun Many hiện lại đang được đánh giá cao hơn cả người anh.

Năm 2015, Hun Many là một trong 19 người nhận giải thưởng Gusi Peace Prize – giải thưởng của tổ chức Gusi Prize Interrnational có trụ sở tại Manila (Philippine) – dành cho lãnh đạo thanh niên và những nhà hoạt động nhân đạo. Hun May cũng đã nhận giải thưởng quốc tế với tư cách là một người “Bảo vệ các di sản văn hóa”. Năm 2013, Hun Many, chứ không phải ông anh, ra tranh cử và trở thành nghị sỹ.

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2015

Góp ý cho dự thảo báo cáo chính trị ĐH XII





Nguyễn Đình Cống

15-10-2015

Bản góp ý này tập trung vào 3 vấn đề: 1- Đánh giá tình hình thời gian qua; 2- Nhiệm vụ quan trọng thời gian tới; 3- Nhận xét về Dự thảo báo cáo.

I – ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỜI GIAN VỪA QUA

Mỗi lần ĐH đều có đánh giá cùng dự báo tình hình. Ngày nay xem lại các đánh giá trước đây thấy có không ít điều sai, như là: Thời đại của 3 dòng thác cách mạng, sự thắng lợi của CNXH trên toàn thế giới, chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Liên xô là thành trì vững chắc của CNXH, đế quốc Mỹ là kẻ thù vĩnh viễn của nhân dân VN và nhân loại tiến bộ, gió đông thổi bạt gió tây v.v…

Dự báo là khó, có thể đúng và cũng có thể sai do tình hình phức tạp, do trình độ non kém. Về tình hình đã qua và hiện tại, bình thường, nếu có năng lực và quan trọng là trung thực, thì có thể đánh giá đúng hoặc ít nhất cũng gần đúng. Việc đánh giá sai thường là do kém trình độ, chỉ nhìn thấy một số mặt bên ngoài mà bỏ sót những điều quan trọng có tính bản chất nhưng bị ẩn dấu, hoặc là thiếu trung thực, bị áp đặt bởi một thế lực nào đó. Nếu tin vào sự đánh giá như vậy mà hoạch định chính sách thì khó tránh khỏi nhầm phương hướng, phạm sai lầm.

Câu châm ngôn “Một nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng một nửa của sự thật nhiều khi là dối trá” vẫn rất đúng. Có thể kể ra không ít các dẫn chứng về đánh giá sai tình hình, dẫn đến chủ trương và biện pháp sai như thời gian đầu của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, của cải cách ruộng đất, của cải tạo công thương v.v…Việc chỉ thấy và nêu ra một phần sự thật, phần mà lãnh đạo muốn có, muốn nghe, còn không thấy, không nêu ra phần khác của sự thật, phần mà lãnh đạo không muốn có, không muốn nghe có nhiều nguyên nhân như sự độc quyền toàn trị, sự dối trá, mất dân chủ, phẩm chất thấp (yếu kém về trình độ, sợ sệt, nịnh bợ…).

Gần đây, Đảng luôn đề cao việc “Nhìn thẳng vào sự thật, nói lên sự thật”. Tuy vậy, chủ yếu cũng là sự thật về kinh tế, còn về chính trị và xã hội thì vẫn bị che dấu một phần nào đó. Rồi dần dần    “Nhìn thẳng vào sự thật…” chỉ còn lại chủ yếu là khẩu hiệu, là lời hô hào hình thức. Thực chất thì những lời nói lên sự thật mà lãnh đạo muốn che dấu bị quy kết là phản động, nhiều người sợ không dám nói ra. Hình như nhiều người lãnh đạo Đảng chưa hiểu thấu đáo một nguyên lý phổ biến như sau: “Nghe những lời ca tụng thì sướng cái lỗ tai đấy nhưng ít có tác dụng. Nghe những lời chê bai, phê phán thì khó chịu đấy nhưng biết nghe thì sẽ thu được nhiều ích lợi”.

Trong Dự thảo báo cáo chính trị ĐH XII, trong phần “… một số kinh nghiệm…” vẫn có đoạn : Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước…

Tôi tạm tin vào thiện chí trên đây mà mạnh dạn nêu ra, phân tích một vài phần còn lại của sự thật bị ẩn dấu, chưa được nêu ra hoặc có nêu ra nhưng còn sơ sài. Trong 5 ý kiến dưới đây thì ý 1 , 2 và 3 có liên quan đến dự thảo báo cáo, ý kiến 4 và 5 không liên quan, được trình bày để có nhận thức đúng . Đây là bản góp ý kiến chứ không phải báo cáo nên để tránh dài dòng, tôi không nêu lại những sự thật tốt hoặc chưa tốt đã được viết trong Dự thảo, không nêu chứ không  phải là không biết và không phủ nhận.

1-Trong 5 bài học có bài 4 là: “Phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết…”. Đây là điều được nhiều người cho là mới. Đúng là “mới được viết ra” vì trong các báo cáo trước đây chưa thấy. Tuy vậy về lời nói thì từ lâu Đảng vẫn tuyên truyền : “ Ngoài lợi ích của dân tộc Đảng không còn lợi ích nào khác”. Nói và viết như vậy nhưng đối chiếu với thực tế xem Đảng có làm được như thế không. Tuy rằng trong Hiến pháp, trong Điều lệ đều viết là Đảng hoạt động tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nhưng thực tế Đảng tự đặt mình cao hơn Quốc hội , cao hơn chính quyền, cao hơn dân tộc và còn cao hơn cả luật pháp. Đảng tự cho mình là sáng suốt nên đã đem ý kiến của một số người trong Bộ Chính trị áp đặt cho toàn dân với chiêu bài “lo cho dân”. Đảng chưa bao giờ hỏi ý kiến dân một cách thực sự dân chủ xem có điều gì dân không vừa lòng, có quyền lợi nào của Đảng ngược với dân hay không khi mà nhiều điều quan trọng được thảo luận và quyết định bởi Bộ Chính trị rồi đưa ra cho Quốc hội thông qua. Theo ý kiến của một số nhà hoạt động dân chủ thì có một số lợi ích của Đảng là trái với lợi ích của dân tộc. Khi viết và nói: “Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết…” thì nhiều người giải thích là trên lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích địa phương. Tôi muốn nhấn mạnh là phải trên cả lợi ích của Đảng.

2- Đảng CSVN theo Chủ nghĩa Mác Lênin (CNML). Đảng lãnh đạo nhân dân, đạt được một số thắng lợi trong chiến tranh cách mạng. Từ đó rút ra kết luận là nhờ CNML mà nhân dân ta thu được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là một kết luận quá sai lầm về phương diện suy luận lôgic, một sự ngụy biện. Sự thật được rút ra từ thực tế là CNML mang lại cho dân tộc VN lợi ít, hại nhiều. Mỗi lần Đảng tìm cách vận dụng, áp đặt CNML đều mang lại tai họa cho dân tộc.Thắng lợi của ĐCS trong chiến tranh CM nhờ nguyên nhân khác là chủ yếu chứ cơ bản không phải nhờ CNML. Việc đổi mới nền kinh tế từ ĐH VI là làm ngược lại CNML thì một số người lại ngụy biện, dối trá, cho là vận dụng sáng tạo CNML. Một đặc điểm lớn cuối thế kỷ 20 là sự từ bỏ CNML trên phạm vi rộng thì Đảng không muốn nói đến, vẫn quyết kiên trì. Đó là một sai lầm về đường lối.

3- Trong Dự thảo có nhận định “Chính trị – xã hội ổn định”. Sự ổn định của VN chỉ là hình thức, thực chất không hoàn toàn đúng như vậy. Về chính trị, tuy không có những rối loạn lớn, Đảng vẫn nắm chặt chính quyền, nhưng sự lệ thuộc vào Trung quốc kể từ hội nghị Thành đô, sự thiếu nhất quán về quan điểm giữa một số cán bộ chủ chốt, giữa các phe phái, sự mất lòng tin của nhân dân càng ngày càng gia tăng, sự lộng hành của các nhóm lợi ích, sự không minh bạch trong việc kết án, giam giữ và trục xuất một số người hoạt động dân chủ, sự lộng hành của các thế lực công an v.v… là những dấu hiệu của sự kém ổn định về chính trị. Mà ổn định chính trị không phải là mục đích tự thân, nó nhằm phục vụ cho ổn định xã hội, là vấn đề quan trọng hơn, cần thiết hơn. Thực chất của xã hội VN thời gian qua là không có được sự ổn định cần thiết, nó thể hiện trong nhiều mặt mà chủ yếu là sự tha hóa của đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp. Vì nạn tham nhũng và mua quan bán tước hoành hành, nhiều người phải bỏ khá nhiều vốn để “chạy việc, chạy chức” nên cơ quan nhà nước khó tuyển được người có thực tài. Cán bộ đã yếu kém về năng lực, lại lo tìm đủ mọi cách thu hồi vốn, lấy đâu trình độ và trách nhiệm để làm tốt nhiệm vụ chính.

Một xã hội ổn định trước hết phải thực hiện được “chính danh”, nghĩa là ai nhận làm việc gì phải có năng lực và trách nhiệm để làm việc đó và dành tâm trí, sức lực cho công việc đó. Thế nhưng trong xã hội VN hiện nay sự chính danh như vừa nêu là thuộc loại hiếm, đa số quan chức, dù làm việc gì, ở cấp nào thì đều quan tâm đến việc kiếm thêm tiền ngoài lương để thu hồi vốn, để cải thiện đời sống, để làm giàu, phần nhiều công việc chính chỉ được làm cho qua chuyện, ít được quan tâm tới chất lượng và hiệu quả. Ngoài ra có rất nhiều thứ dổm mà nguy hại nhất là “người dổm”, đó là những người mà “danh thực bất tương đồng”, năng lực và đạo đức không phù hợp với chức danh và công việc, chính những người đó là lực lượng làm mất ổn định xã hội một cách ngấm ngầm.

Tệ nạn dối trá tràn lan, từ các cơ quan Đảng và chính quyền đến toàn dân cũng là nguyên nhân quan trọng làm mất ổn định xã hội vì nó làm mất lòng tin, mà lòng tin là cơ sở cho ổn định. Rồi những vấn đề như dân oan, sự xuống cấp về đạo đức và giáo dục, sự lừa đảo trong nhiều hoạt động, người dân sợ công an hơn là pháp luật, sự rối loạn trong giao thông, trong thị trường, sự hủy hoại môi trường v.v… đều là những biểu hiện của mất ổn định xã hội.

Về kinh tế, theo thống kê thì mỗi năm đều có tăng trưởng nhưng hiệu quả thấp, VN nổi tiếng vì làm được những cái cầu, những đoạn đường, những ngôi nhà, những tượng đài đắt nhất và mau hỏng nhất thế giới. Hàng năm GDP tăng, lương tối thiểu tăng nhưng đời sống của đại đa số nhân dân hầu như không tăng theo vì nạn leo thang của giá cả. Sản xuất của kinh tế quốc doanh chủ yếu là thua lỗ vì tham nhũng và ngu dốt. Nhiều thứ hàng hóa, kể cả nông sản của tư nhân có giá thành cao hơn hàng nhập khẩu, người ta đổ lỗi cho công nghệ kém, năng suất thấp mà lờ đi một việc rất quan trọng là nền sản xuất phải chịu sự nhũng nhiễu, hạch sách, bóp nặn của các quan chức chính quyền. Những điều như thế đều góp phần làm mất ổn định xã hội.

Trong Dự thảo có nêu: “còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội”. Theo tôi, không phải là tiềm ẩn nhân tố và nguy cơ mà thực sự là xã hội đang mất ổn định một cách ngấm ngầm.

Khi chúng ta ký các hiệp định như WTO, TPP…thì đồng thời nhận cả cơ hội (cái được, triển vọng) và nguy cơ (cái thua, thách đố, rủi ro). Khi xã hội ổn định, mọi sự minh bạch thì cơ hội sẽ là chủ yếu, giúp sự phát triển nhanh. Với một xã hội kém ổn định như VN hiện nay, khi tham nhũng và tệ nạn mua quan bán tước tràn lan, khi các nhóm lợi ích thao túng nền kinh tế, khi sự nhũng nhiễu, hạch sách, bóp nặn nền sản xuất và lưu thông, khi gian dối tràn lan thì các nguy cơ sẽ lấn át cơ hội và không khéo dân tộc sẽ rơi vào cảnh càng tụt hậu xa hơn. Việc một số người Phương Tây cho rằng vào TPP thì VN là nước có lợi nhất, đó là một nhận định chủ quan, chưa xét đến sự kém ổn định của xã hội VN hiện tại. Nguyễn Quang Duy nêu ý kiến: chớ vội lạc quan về TPP, còn theo Trà Mi-VOA thì TPP có thể gây thiệt hại lớn cho VN (trang Bauxite ngày 10 tháng 10-2015)

4- Trong số trên 3 triệu đảng viên hiện nay chỉ có một số tương đối ít thỏa mãn được yêu cầu có tác dụng tích cực cho sự phát triển của đất nước, bằng năng lực, phẩm chất và sự gương mẫu.       Một số khá đông đảng viên chỉ giữ danh hiệu để làm vì, không có tác dụng gì đáng kể cho vai trò của Đảng (trong đó có tỷ lệ khá lớn người hưu trí). Một số khác là những kẻ cơ hội, lợi dụng được sự sơ hở hoặc sai lầm trong việc phát triển Đảng, vào Đảng để tạo điều kiện vinh thân, phì gia hoặc thỏa mãn mưu đồ cá nhân. Như vậy Đảng có đông đảng viên nhưng không mạnh, đặc biệt là khá thấp về trí tuệ.

5- Cách tổ chức 3 loại cơ quan nhà nước trong một nước như hiện nay, gồm Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc làm cho hiệu quả công việc thấp, tạo ra quan liêu và lãng phí, tạo ra số người ăn lương quá đông, rất khó tinh giản biên chế, rất khó tăng năng suất.

II – NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG THỜI GIAN TỚI

Nhiệm vụ cụ thể có rất nhiều, quan trọng là tìm ra được cái then chốt để khi đụng vào nó sẽ có tác động đến mọi mặt. Từ trước đến nay Đảng vẫn có nhận định rằng: cái then chốt ấy là sự lãnh đạo của Đảng, là sự trong sạch và vững mạnh của Đảng. Chẳng thế mà dự thảo báo cáo có 15 đề mục với khoảng 4 vạn chữ thì đề mục thứ 15 về Xây dựng Đảng…chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 9 ngàn chữ ( trên 20% ). Tuy vậy xây dựng Đảng như thế nào thì còn phải bàn nhiều vì con đường Đảng chọn, chủ thuyết Đảng theo, công việc Đảng làm trong thời gian qua và dự định tiếp tục tỏ ra có nhiều sai lầm. Khi chủ thuyết đã sai mà càng tăng cường lãnh đạo theo nó thì dễ bị sa lầy. Theo kết quả nghiên cứu của một số chuyên gia, trí thức trong và ngoài nước thì việc quan trọng và cấp thiết nhất đối với dân tộc VN là cải cách thể chế, vì nó không những đang trở thành lực cản rất lớn cho mọi sự tiến bộ mà còn kéo lùi lịch sử. Có cải cách thể chế thì mới có điều kiện phát triển các lĩnh vực khác.

Từ trước đến nay Đảng vẫn rất quan tâm đến sự thống nhất tư tưởng và củng cố niềm tin, nhưng dưới khẩu hiệu thống nhất đó là sự áp đặt tư tưởng của một hoặc của vài người cấp trên, rất mất dân chủ. Khi cấp dưới và nhân dân còn yếu kém, còn sợ hãi thì sự áp đặt tỏ ra có hiệu quả, nhưng khi người ta đã có kiến thức và không còn biết sợ thì áp đặt chỉ mang lại sự chống đối chứ không thể mang lại sự thống nhất và niềm tin. Hiện nay trong Đảng xuất hiện ngày càng nhiều những quan điểm bất đồng với sự áp đặt, lại bị vu cáo, cho là “tự diễn biến”. Những ý kiến sau đây chủ yếu xoay quanh việc xây dựng Đảng và cải cách thể chế.

1- Cần tổ chức các cuộc đối thoại

Đảng cần và rất nên tổ chức các cuộc đối thoại công khai, một bên là đại diện của Đảng, một bên là đại diện của trí thức, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự. Đối thoại công khai mới tránh được áp đặt. Đối thoại về tình hình đất nước, về nguy cơ của dân tộc, về sự đúng sai, hay dở của Chủ nghĩa Mác Lênin và con đường XHCN, về kinh tế thị trường định hướng XHCN v.v…Cần truyền hình các cuộc đối thoại như vậy cho toàn dân theo dõi và đánh giá. Đảng mở được các đối thoại công khai như vậy mới chứng tỏ được bản lĩnh lãnh đạo, sự tự tin vào chính nghĩa của mình và có lòng tin vào nhân dân. Nếu Đảng thấy không thuận tiện khi tự mình mở đối thoại thì khuyến khích, ủng hộ các đơn vị như Liên hiệp các hội KH, Viện Hàn lâm KHXH, Mặt trận Tổ quốc đứng ra tổ chức. Trong các lần bầu Tổng thống ở Mỹ, cuộc đối thoại trực tiếp giữa các ứng viên là việc được toàn dân quan tâm. Nhớ rằng đối thoại chỉ có tác dụng khi nó được tổ chức công khai, minh bạch, không lợi dụng quyền lực để dùng những thủ đoạn gian dối. Khi thấy chưa thể nào tổ chức được đối thoại thì mở rộng tự do báo chí, cho phép các tổ chức xã hội dân sự hoặc tư nhân ra báo để phản biện các đánh giá cũng như đường lối, chính sách của Đảng. Khi trong tay của Đảng có hàng trăm tờ báo, phát hành đến tận hang cùng ngõ hẻm thì ngại gì một vài tờ báo của tổ chức xã hội dân sự và tư nhân nếu như Đảng tự tin vào chính nghĩa của mình và tin vào nhân dân.

2- Cần thay đổi tổ chức của Đảng

Tổ chức Đảng như hiện tại là của một đảng làm cách mạng vô sản, theo Lênin đó là đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Tổ chức như vậy có tác dụng rất tốt trong quá khứ. Hiện nay vai trò của Đảng đã thay đổi, trở thành một đảng chính trị, đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội văn minh tiến bộ. Tổ chức ĐCS VN hiện tại mang nặng tính áp đặt nhân dân hơn là lãnh đạo. Nên tham khảo các đảng cầm quyền tại các nước tiền tiến .Theo tôi, trong hoàn cảnh đảng cầm quyền, quan trọng là trí tuệ chứ không cần đến số lượng đảng viên quá nhiều, không cần tổ chức chi bộ đến tận từng cơ sở nhỏ bé, không cần đặt cơ quan đảng với một lượng cán bộ khá đông lên trên mọi cấp chính quyền. Thay đổi tổ chức đảng theo hướng đảng chính trị, đảng cầm quyền với sự đề cao trí tuệ không làm Đảng yếu đi mà còn mạnh thêm. Trong điều lệ và các văn kiện không nên gọi là đảng cách mạng nữa mà đổi thành đảng chính trị.

Với những đảng viên già yếu hoặc không còn tác dụng nên vận động, tổ chức cho họ ra đảng bằng một lễ trưởng thành, đồng thời bỏ danh hiệu mấy chục năm tuổi đảng. Danh hiệu đó ban đầu có tính động viên, càng ngày càng trở nên mất ý nghĩa, một số người đã ốm yếu mấy chục năm, không còn có một tác dụng gì với tư cách đảng viên, thế mà vẫn đeo bám đảng chỉ với mong ước và tự hào được kể có mấy chục năm tuổi đảng trong bài điếu văn..

3- Cần xét lại để từ bỏ Chủ nghĩa Mác Lênin và đổi tên đảng

Chủ nghĩa Mác Lênin tỏ ra có nhiều sai lầm và độc hại. Không phải bây giờ, sau sụp đổ của Liên xô và các nước cộng sản Đông Âu người ta mới thấy mà ngay khi nó vừa ra đời thì hàng trăm triệu người cũng đã thấy, đã ra sức bài trừ. Chế độ cộng sản và XHCN chỉ là ảo tưởng. Trước đây Mỹ và một số nước tự do khác rất sợ “ tai họa cộng sản” nên cố tìm mọi cách để chống lại, để ngăn cản. Ngày nay họ đã thấy, đã biết và tin là CNCS đã qua thời kỳ lừa dối được nhiều người, đã quá suy yếu đến mức hoàn toàn không đáng sợ, thế nào cũng bị tan rã, bị loại khỏi xã hội, không sớm thì muộn. Những người lãnh đạo đất nước theo cộng sản chỉ còn đủ sức kìm hãm tự do, dân chủ, nhân quyền của dân tộc họ để bảo vệ chủ thuyết đã lỗi thời, chứ không còn đủ sức xuất khẩu cách mạng, không còn đủ lý lẽ để lừa bịp nhân dân các nước khác. Gần đây Mỹ và các nước tuyên bố tôn trọng chế độ chính trị do chúng ta tự chọn, sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ chúng ta phát triển kinh tế. Làm việc đó họ thể hiện sự tử tế, sự văn minh và chủ yếu cũng là vì quyền lợi của họ chứ không có nghĩa là họ công nhận chúng ta đã chọn được con đường đúng đắn. Họ vẫn cho những người theo và bảo vệ chủ nghĩa cộng sản là những kẻ cuồng tín, ngu tín, khờ dại nhưng họ đành chấp nhận chơi chung vì biết chắc cộng sản không thể làm hại được họ và chơi với những người như vậy cũng có cái lợi cho họ. Những từ ngữ như “Đối tác chiến lược, Hợp tác toàn diện…”chỉ có nghĩa khi thật sự tin cậy nhau vì cùng chí hướng, còn không chỉ là các câu sáo rỗng. Khi người ta cố bảo vệ ý thức hệ chính trị chống đối nhau thì khó có được tình bạn thân thiết.

Thực chất thì Đảng CS Trung quốc đã từ bỏ những nội dung chính của CNML, Đảng CS VN cũng đã từ bỏ một số nội dung của CNML, nhưng bên ngoài vẫn cố to tiếng kiên trì nó. Làm thế để làm gì, phải chăng là để duy trì sự dối trá. Khi người ta biết anh dối trá thì làm sao người ta thật lòng với anh được. Tôi nghĩ rằng để có đường lối đúng đắn xây dựng đất nước thì điều cần thiết đầu tiên là Đảng công khai tuyên bố từ bỏ CNML. Làm cơ sở cho việc từ bỏ này là các cuộc đối thoại về CNML để toàn Đảng, toàn dân thấy rõ những độc hại, những tai họa nà nó đã mang đến cho dân tộc.

Khi đã từ bỏ CNML thì không nên giữ tên đảng cộng sản mà nên đổi tên, thí dụ có thể lấy lại tên Đảng Lao động. Trong 85 năm tồn tại Đảng đã 3 lần đổi tên: Đảng Cộng sản VN thành ĐCS Đông dương, thành Đảng Lao động VN, thành Đảng Cộng sản VN. Như vậy nếu bây giờ có đổi tên cho phù hợp tình hình mới cũng là việc bình thường.

Việc từ bỏ CNML, từ bỏ CNCS sẽ thu được nhiều lợi lớn, ngoài việc tránh cho dân tộc đi nhầm đường, chui vào hang cụt thì còn tạo điều kiện để thực sự hòa hợp dân tộc, tạo niềm tin cho các nước đang có quan hệ hợp tác.

4- Kiên quyết xây dựng cho được thể chế thật sự dân chủ với tam quyền phân lập

Có xây dựng được thể chế như vậy, loại bỏ sự toàn trị độc quyền thì mới mong có cơ sở để bài trừ tham nhũng, triệt bỏ nạn mua quan bán tước, giữ ổn định xã hội. Trên kia tôi đã viết, nếu xã hội không ổn định, vẫn đầy rẫy tham nhũng mà nhà nước ký hết hiệp định này đến hiệp định khác thì không khéo không phát huy được thuận lợi mà làm tăng nguy cơ đến mức càng bị tụt hậu xa hơn nữa . Hiện nay Đảng đang bị mất lòng tin. Hãy tham khảo Đảng Nhân dân hành động của Singapore (PAP). Từ đầu thế kỷ 21 Đảng này dần dần mất lòng tin của dân, tại cuộc bầu cử năm 2011 bị mất nhiều phiếu. Để lấy lại lòng tin PAP đã không dùng các thủ đoạn xấu như hạn chế hoặc triệt hạ đảng đối lập, không ra sức tuyên truyền vinh quang của quá khứ, không tìm cách đàn áp những người bất đồng chính kiến, mà tự mình đổi mới, ra sức khắc phục thiếu sót, vì thế trong cuộc bầu cử năm 2015 đảng PAP đã lấy lại lòng tin và uy tín gần như tuyệt đối.

Nếu Đảng tự đổi mới để hợp lòng dân thì dù có tam quyền phân lập Đảng vẫn giữ được vai trò cầm quyền, củng cố được vai trò lãnh đạo.

Việc đầu tiên tạo nên tam quyền phân lập là tổ chức và bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan đó phải đóng được vai trò thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất. Muốn thế phải thực hiện đồng thời 2 điều: 1- Bỏ hẳn việc Đảng cử, dân bầu, Mặt trận giới thiệu. Mở rộng việc tự ứng cử, tự vận động, tạo cơ hội thu hút người có tài đức. 2-Đại biểu Quốc hội và HĐND không đồng thời là cán bộ chủ chốt của chính quyền. Kiên quyết không làm cái việc dối trá vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa mất dân chủ vừa lãng phí sức lực và trí tuệ.

Khi đã có chính thể tam quyền phân lập thì vai trò của Mặt trận trở nên ít cần thiết và có thể giải tán.

5- Một việc cấp bách tại ĐH

Một việc rất quan trọng của ĐH là bầu ban lãnh đạo mới. Việc này đã được Bộ Chính trị và cuộc họp lần thứ 12 của Trung ương 11 thảo luận về danh sách ứng cử, đề cử theo QĐ 244 ngày 9 tháng 6 năm 2014 (QĐ về bầu cử tại các ĐH Đảng). Xét ra đó là một QĐ vi phạm điều lệ Đảng      (Mọi đảng viên có quyền ứng cử, bầu cử vào mọi chức vụ) và là một QĐ rất mất dân chủ, không tôn trọng quyền của ĐH là cơ quan quyền lực cao nhất. Tôi đề nghị ĐH dùng quyền của mình bác bỏ QĐ 244, xóa bỏ danh sách được lập ra một cách mất dân chủ theo QĐ đó, để toàn quyền cho ĐH đề cử danh sách mới.

Thứ Hai, 5 tháng 10, 2015

Hồ Chí Minh ,con người muôn mặt



Đôi lời: Chẳng những ông Hồ Chí Minh là con người muôn mặt, mà qua bài viết đăng trên báo Nhân Dân: Bác Hồ ở Boston, thì ông Hồ cũng đã cũng đã từng “ôm chân đế quốc Mỹ”, kiếm “bơ thừa, sữa cặn”, nói theo ngôn ngữ của các “cháu ngoan bác Hồ”. Các cháu này luôn miệng chửi những người VN “ôm chân đế quốc Mỹ” lâu nay, mà không biết rằng bác của chúng cũng đã ôm chân đế quốc Mỹ hơn một thế kỷ trước.


Song Chi

13-9-2015


                                               Hồ Chí Minh. Nguồn ảnh: Thư viện Hoa Sen

Trong cuộc đời hoạt động “cách mạng” của mình, ông Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi, bút danh khác nhau. Bài “Sưu tầm tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ” đăng trên trang báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, đã kê khai ông Hồ có khoảng 175 tên gọi, bí danh, bút danh, ngoài ra “Hiện vẫn còn khoảng 30 tên gọi, bí danh, bút danh được cho là của Hồ Chí Minh, nhưng chưa có cơ sở để khẳng định chắc chắn hoặc chứng minh cụ thể Bác đã dùng vào thời gian nào, trong trường hợp nào, nên vẫn chưa thể công bố chính thức”.

Từ lâu, cũng chính nhờ đảng và nhà nước này công bố, mà người dân mới biết Trần Dân Tiên, người viết cuốn tiểu sử “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” xuất bản lần đầu tiên tại Trung Hoa năm 1948 và tại Paris năm 1949 (theo Wikipedia) chính là Bác Hồ. Trong một cuốn tiểu sử khác, “Vừa đi đường vừa kể chuyện” xuất bản lần đầu năm 1950, Hồ Chí Minh lấy bút danh là T. Lan, đóng vai một chiến sĩ trong đoàn tùy tùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi hành quân, vừa đi vừa hỏi chuyện Chủ tịch và ghi chép lại. Như vậy ông Hồ chỉ có 2 cuốn gọi là “tiểu sử” được phổ biến rộng rãi, in ra nhiều thứ tiếng, thì cả hai đều do chính ông Hồ viết ca tụng mình.

Việc ông Hồ từng làm việc cho đảng cộng sản Liên Xô và đảng cộng sản Trung Quốc, nhận tiền của Liên Xô và Trung Quốc là chuyện chả phải mới mẻ gì. Chỉ cần ngay trong bài này cũng thấy.